
2. Nguyên tắc của kỹ thuật PCR Kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction) là một
phương pháp tổng hợp DNA dựa trên mạch khuôn là một trình tự đích DNA ban đầu,
khuếch đại, nhân số lượng bản sao của khuôn này thành hàng triệu bản sao nhờ hoạt
động của enzyme polymerase và một cặp mồi (primer) đặc hiệu cho đoạn DNA này. Primer
là những đoạn DNA ngắn, có khả năng bắt cặp bổ sung với một mạch của đoạn DNA
khuôn và nhờ hoạt động của DNA polymerase đoạn primer
này được kéo dài để hình thành mạch mới. Kỹ thuật PCR được
hình thành dựa trên đặc tính này của DNA polymerase, đoạn DNA nằm giữa hai
primer sẽ được khuếch đại thành số lượng lớn bản sao đến mức có thể thấy được
sau khi nhuộm bằng ethidium bromide và có thể thu nhận đoạn DNA này cho các mục
đích khác nhau bằng các thao tác trên gel. Như vậy, để khuếch đại một trình tự
DNA xác định, cần phải có những thông tin tối thiểu về trình tự của DNA, đặc biệt
là trình tự base ở hai đầu đoạn DNA đủ để tạo các primer bổ sung chuyên biệt
(trích dẫn bởi Hồ Huỳnh Thuỳ Dương, 2003). Phản ứng PCR gồm nhiều chu kỳ lăp lại
nối tiếp nhau. Mỗi chu kỳ gồm 3 bước như sau : Bước 1: (Biến tính tách đôi sợi DNA, denaturation) Giai đoạn này được thực hiện
ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ nóng chảy của phân tử (94 – 95 0C) trong vòng 30
giây đến 1 phút, làm cho phân tử DNA mạch
kép tách thành 2 mạch đơn. Chính 2 mạch đơn này đóng vai trò
là mạch khuôn cho sự tổng hợp 2 mạch bổ sung mới. Bước 2: (bắt cặp, annealing)
Trong bước này ở nhiệt độ được hạ thấp hơn nhiệt độ nóng chảy (Tm) của các
primer, cho phép các primer bắt cặp với mạch khuôn. Trong thực nghiệm nhiệt độ
này dao động trong khoảng 55 – 65 0C. Tùy thuộc vào Tm của các primer mà thời
gian bắt cặp kéo dài từ 30 – 60 giây. Bước 3: (kéo dài, elongation – extension)
Nhiệt độ được tăng lên 72 0C giúp cho DNA polymerase hoạt động tốt nhất. Dưới
tác động của DNA polymerase, các nucleotide lần lượt gắn vào primer theo nguyên
tắc bổ sung với mạch khuôn. Thời gian của giai đoạn này tùy thuộc vào độ dài của
trình tự DNA khuếch đại, thường kéo dài từ 30 giây đến vài phút. Sự khuếch đại
này có thể được tính như sau: Tổng lượng DNA khuếch đại = m x 2n m: Là số bản
sao của chuỗi mã hóa. n: Là số chu kỳ. Như vậy, qua một chu kỳ nhiệt, một DNA
đích đã được nhân bản thành hai bản
sao; và nếu chu kỳ này được lặp đi lặp lại liên tục 30 đến
40 lần thì từ một DNA đích đã nhân bản được thành 230 đến 240 bản sao, tức là đến
hàng tỷ bản sao.


3. Các yếu tố ảnh hưởng
đến phản ứng PCR 3.1. DNA mẫu Phản ứng khuếch đại tối ưu xảy ra
trên DNA thật tinh sạch. Nhiều kỹ thuật chẩn đoán bằng PCR vẫn đạt kết quả tốt
với DNA thu nhận được trực tiếp từ dịch chiết tế bào. Lượng DNA mẫu sử dụng
cũng có xu hướng giảm (1µg xuống còn 100ng) với việc sử dụng các DNA polymerase
có hiệu quả cao. (trích dẫn bởi Hồ Huỳnh Thùy Dương, 2003) 3.2.
Enzyme Taq polymerase chịu nhiệt được tách chiết từ vi khuẩn sống ở các
suối nước nóng Thermus aquaticus. Enzyme này không bị phá vỡ ở nhiệt độ biến
tính. Ngày nay, nhiều polymerase chịu nhiệt khác được đưa ra thị trường với nhiều
chức năng chuyên biệt và hoàn thiện hơn.
3.3. Primer và nhiệt độ lai
Primer là chìa khóa quan trọng cho sự thành công hay thất bại của một thí nghiệm PCR. Nếu primer được thiết kế một cách chính
xác thì thí nghiệm sẽ mang lại kết quả về sự khuếch đại của một mảnh DNA đơn.
Việc lựa chọn primer cần tuân thủ theo một số nguyên tắc sau:
- Độ dài của đoạn mồi khoảng từ 17-30 Nu. Các đoạn mồi không
nên chứa hơn 3 Nu giống nhau xếp liên tiếp. - Tỷ lệ GC lý tưởng trong đoạn mồi vào khoảng 50% để nhiệt độ bắt cặp của đoạn mồi
là không quá thấp. - Hai đoạn mồi không được có trình tự Nu bổ sung lẫn nhau. -
Nhiệt độ lúc bắt đầu phản ứng, nghĩa là lúc đã cho enzyme tổng hợp DNA vào,
không nên thấp hơn nhiệt độ bắt cặp cặp của đoạn mồi. - Nhiệt độ nóng chảy của
2 mồi không nên cách nhau quá xa, vì nếu sự chênh lệch nhiệt độ lớn thì primer
có Tm cao hơn sẽ bắt cặp không đặc hiệu, còn primer có Tm thấp hơn sẽ không thể
lai được với DNA. - Đoạn gene cần khuếch đại không nên lớn hơn 3kb và chiều dài
lý tưởng là nhỏ hơn 1kb. - Vị trí đầu 3’ của primer rất quan trọng trong việc
kiểm soát hiện tượng “mismatch” – bắt cặp không đặc hiệu. Cần tránh trình tự A
hay T ở đầu 3’, mà
thay vào đó là G hoặc C vì mối liên kết hydro giữa G – C mạnh
hơn A – T sẽ bảo đảm cho sự bắt cặp đặc hiệu.
3.4. Các thành phần
khác a. Nồng độ dNTP (các
deoxynucleotide triphotphat) Nồng độ dNTP thường được sử dụng là 20 – 200 μM. Nồng
độ cao hơn dễ dẫn đến sự khuếch đại “ký sinh". Bên cạnh đó, sự cân bằng
trong thành phần các dNTP cũng ảnh hưởng đến phản ứng PCR. Sự mất cân bằng
trong thành phần các dNTP sẽ làm tăng các lỗi sao chép của DNA polymerase. b. Nồng độ MgCl2 Nồng độ MgCl2 cũng là một
nhân tố ảnh hưởng mạnh đến phản ứng PCR. Mg2+ rất cần cho quá trình liên kết
các dNTP, xúc tác cho enzyme Taq polymerase, làm tăng Tm của DNA mạch kép. Mg2+
là Co – factor của Taq polymerase nên nếu lượng Mg2+ quá thấp thì Taq
polymerase sẽ không thể hoạt động bình thường trong giai đoạn kéo dài (Bùi Chí
Bửu và Nguyễn Thị Lang, 1999), hạn chế quá trình kéo dài. Ngược lại nồng độ
Mg2+ cao sẽ giúp ổn định dây đôi DNA và ngăn ngừa sự biến tính hoàn toàn (do sự
mở dây đôi DNA) của sản phẩm trong mỗi chu kỳ, làm cho sản phẩm PCR ít đi; đồng
thời, có thể làm cho hiện tượng bắt cặp giả xảy ra ổn định hơn và cho ra những
sản phẩm mong
muốn với số lượng quá lớn nhưng mức độ chuyên biệt thấp. c.
Dung dịch đệm Một nồng độ cao của dung dịch đệm PCR được sử dụng để tăng cường
hiệu quả cho phản ứng PCR. Sau đây là dung dịch đệm PCR được xem là tốt hơn đối
với các đệm đang có mặt trên thị trường - 16,6 mM ammoniumsulfate - 67,7 mM
TRIS – HCl, pH 8,89 - 10 mM beta – mercaptoethanol - 170 microgams/ml BSA - 1,5
– 3 mM MgCl2 d. Số lượng chu kỳ của phản ứng PCR Trong thực tế số chu kỳ cho một phản ứng PCR
không nên vượt quá 40. Sở dĩ như vậy vì phản ứng PCR diễn tiến qua hai giai đoạn
:
- Giai đoạn đầu: Số lượng bản sao tăng lên theo cấp số nhân,
tỉ lệ với lượng mẫu ban đầu. - Giai đoạn sau: Hiệu quả khuếch đại giảm hẳn do sự
phân hủy và cạn kiệt các thành phần của phản ứng, sự xuất hiện các sản phẩm phụ
ức chế phản ứng, hoặc các bản sao vừa được tổng hợp không kết hợp với mồi mà bắt
cặp với nhau. Số chu kỳ cho một phản ứng PCR tùy thuộc số lượng mẫu DNA ban đầu.
Nếu số lượng mẫu ban đầu là 105 thì cần 25 – 30 chu kỳ. Nếu số lượng mẫu ban đầu
là 102 – 103 thì số chu kỳ phải là 35 – 40 chu kỳ. 4. Ứng dụng của PCR Hiện nay thành tựu của
PCR mở ra nhiều triển vọng cho sinh học phân tử với nhiều ứng dụng trong sinh học,
y khoa, nông nghiệp, kiểm nghiệm vi sinh vật gây bệnh: thực phẩm, bệnh phẩm, mỹ
phẩm, nước, phát hiện pháp y... Xin đưa ra một ví dụ sau: Phát hiện Clostridium
perfringens ở bò bằng PCR Giới thiệu
Clostridium perfringens là một tác nhân gây bệnh phân bố rộng biết là gây ra
nhiều bệnh của con người và động vật. Động vật trong nước đang được biết là nguồn
của ngộ độc thực phẩm con người; để giảm hoặc loại trừ nguy cơ này, chiến lược
phải được phát triển để ngăn ngừa động vật bị nhiễm bệnh từ chuỗi thức ăn ăn
vào.
C. perfingens sản xuất nhiều loại độc tố: alpha, beta,
epsilon, và iota được coi là độc tố chính và được sử dụng để nhóm vào năm loại
A, B, C, D, E. và độc tố Alpha được sản xuất bởi tất cả các chủng và tham gia
vào bệnh sinh bệnh. Người ta sử dụng PCR bằng cách sử dụng bộ mồi để phát hiện
sự hiện diện của gen mã hóa chất độc alpha.
Vật liệu và phương pháp Chuẩn bị mẫu 1 đến 5 khuẩn lạc C. perfringens lấy
từ BHI blood agar cultures được ly tâm 13000 vòng/phút trong 5 phút, và phần tủa
được hòa trong 50 µl 10mM Tris-HCl, pH 9.0, 50 mM KCl, 2% Triton X-100. Hỗn hợp
được vortex, đun sôi trong
10 phút để ly giải tế bào, ly tâm 13000 vòng/phút trong 2
phút, và 5 µl dịch nổi được dùng là khuôn.
Polymerase chain reaction – PCR Mồi oligonucleotide Alpha toxin gen
(cpa) đã được lựa chọn từ trình tự (19): 5 GCT AAT GTT ACT GCC GTT GACC 3 và 3
TCT GAT ACA TCG TGT AAG 5. Phản ứng PCR được thực hiện ở một thể tích cuối cùng
50 µL với các thuốc thử sau đây: 10 mM Tris-HCl, pH 8,3, 50 mM KCl, 50 mM MgCl
2, 200 f dNTP M, 10 pmol của mỗi mồi, 2U Taq DNA polymerase , và 5 µl của mẫu
DNA.. Hỗn hợp được ủ trong một thermalcycler PTC-200 DNA Engine. Mẫu được biến
tính ở 95 º C trong 5 phút và sau đó thực hiện 35 chu kỳ gồm 1 phút tại 94 º C,
1 phút tại 53 º C, và 1 ở phút 72 º C, với một chu trình mở rộng hơn nữa trong
10 phút ở 72 º C. C. perfringens type A ATCC 3624 được dùng như đối chứng dương
và nước là đối chứng âm. Điện di Đối
với những phát hiện của các sản phẩm PCR, 10
µ L mẫu DNA khuếch đại đã được kiểm tra bằng điện di trong 2% agarose
gel với TBE 0,5 X (0.045M Tris-borate và 1mM EDTA, pH 8,0) chạy buffer. Gel đã
được nhuộm màu với 0,5 µ g / ml ethidium bromide. Kích thước phân tử được xác định
dựa trên một thang đánh dấu 100 bp khối lượng phân tử.
Các sản phẩm phản ứng được phân tích và chụp ảnh dưới tia
UV.
Kết quả Tổng cộng có 89 chủng C. perfringens được định type
sử dụng PCR. Gen mã hóa alpha-toxin (cpa) đã được phát hiện (loại A ATCC 3624)
và trong tất cả các chủng được phân lập
Trong nghiên cứu genome học Nhân bản vô tính với PCR. Phát
hiện các khiếm khuyết gene Định type các mô Phát hiện các vi sinh vật gây bệnh
Recombinant PCR. Kỹ thuật footprinting DnaseI. HLA DNA (các kháng nguyên bạch cầu
người) B. Phương pháp RT-PCR 1.
Phương pháp RT- PCR (reverse transcriptase polymerase chain reaction) là một
phương pháp dùng để khuyếch đại cDNA được tạo ra từ RNA dựa vào đặc tính phiên
mã ngược. RT- PCR thường được sử dụng để tạo ra thư viện cDNA (complementary
DNA) lớn từ một lượng rất nhỏ mRNA, sử dụng trong việc nhận biết các đột biến
và đa hình dựa vào những trình tự phiên mã ngược và sử dụng trong việc định lượng
mức độ phân tử của gene. Ngoài ra, RT-
PCR còn có một ứng dụng quan trọng nữa đó là chúng được sử dụng trong việc chẩn
đoán các bệnh do virus RNA.
2. Nguyên tắc Trong kỹ thuật RT-PCR có sự tham gia của 2 loại
enzyme tổng hợp chuỗi oligonucleotide: enzyme phiên mã ngược ( reverse
transcriptase) và DNA polymerase. Enzyme reverse transcriptase cần cho quá
trình tổng hợp sợi cDNA từ RNA và enzyme cần cho sự tổng hợp sợi DNA từ cDNA.
Do enzyme reverse
transcriptase chịu nhiệt kém nên quá trình phiên mã ngược để
tạo ra cDNA phải được thực hiện ở nhiệt độ thấp (thường khoảng từ 42-450C). Điều
này gây ra những trở ngại: - Sự tạo
thành các sản phẩm khuếch không mong muốn do sự bắt cặp không đặc hiệu của các
primers. - Giảm hiệu quả kéo dài chuỗi
gen do sự hình thành RNA cấu trúc bậc hai. Tuy nhiên những trở ngại này có thể
được giải quyết nhờ vào việc sử dụng enzyme DNA polymerase chịu nhiệt được chiết
từ vi khuẩn Thermus thermophilus. Enzyme này trong những điều kiện nhất định,
có đặc tính sinh học đặc biệt là có thể thực hiện cùng lúc 2 chức năng: chức
năng của reverse transcriptase và chức năng của DNA polymerase. 3. Ứng dụng Chẩn đoán bệnh lở mồm long
móng ở gia súc: Sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử RT- PCR Lở mồm long móng là một
bệnh virus cấp tính lây lan rất nhanh ở động vật. Loại dịch bệnh này tại nước
ta vẫn chưa tìm ra được phương pháp chẩn đoán, điều trị thích hợp. Mới đây, Viện
Thú y quốc gia (Bộ NN&PTNT) kết hợp cùng Viện Công nghệ sinh học (Trung tâm
Khoa học tự nhiên & công nghệ quốc
gia) đã nghiên cứu thành công phương pháp chẩn đoán bệnh mới
bằng kỹ thuật sinh học phân tử giúp người chăn nuôi sớm phát hiện và phòng trừ
bệnh kịp thời cho vật nuôi. Nguyên liệu
và phương pháp tiến hành RT- PCR TS. Tô Long Thành- Phó Bộ môn Hoá sinh miễn dịch
bệnh lý (Viện Thú y) cho biết: “Phương pháp chẩn đoán bệnh lở mồm long móng phổ
biến hiện nay ở nước ta vẫn là nhìn bằng mắt thường hay dùng kít ELISA nhập ngoại.
Các phương pháp này vừa không chính xác, chi phí lại cao, dùng kỹ thuật RT- PCR
sẽ có nhiều ưu điểm hơn”. Nguyên liệu tạo được RT- PCR gồm: mẫu ARN chiết tách
từ bệnh phẩm nghi lở mồm long móng của Việt Nam. Mẫu bệnh phẩm ở bò nghi mắc bệnh
thu thập từ quốc tế gồm 3 mẫu. Các loại hoá chất, vật liệu cần thiết để tiến
hành
phản ứng, tách dòng và một số cặp mồi. Phương pháp tạo RT-
PCR gồm 5 bước khác nhau: - Tách chiết ARN từ bệnh phẩm biểu mô - Tạo ADN bằng phản ứng sao chép ngược - Gây phản
ứng bằng PCR với các cặp mồi - Kiểm tra sản phẩm - Tách dòng và giải trình
trình tự sản phẩm. RT- PCR cho độ
chính xác cao Hiện chúng ta đang có 3 phương pháp chẩn đoán định type gây bệnh
lở mồm long móng thường được áp dụng là phương pháp kết hợp bổ thể, phương pháp
ELISA và RT- PCR. Hai phương pháp đầu mới chỉ dừng lại ở việc trả lời câu hỏi
type gây bệnh thuộc loại gì. Phương pháp RT- PCR không dừng lại ở đó, chúng còn
có thể phân biệt được sự khác biệt biến chủng có trong bệnh phẩm đã xác định có
cùng một type huyết thanh, thông qua việc định chuỗi các sản phẩm PCR và so
sánh trình tự đoạn ADN với các trình tự ADN khác của virus lở mồm long móng được
chứa sẵn trong ngân hàng dữ liệu gen. Với những ưu điểm mà RT- PCR mang lại, đến
nay Viện Thú y đã tiến
hành làm chẩn đoán thử nghiệm tại một số địa phương trên một
số con vật như trâu, bò, lợn, dê, cừu... Thông thường thời gian chẩn đoán bệnh
phải mất trên 10 giờ đồng hồ đối với kỹ thuật soi bằng mắt, 5- 6 giờ đối với kỹ
thuật ELISA (kỹ thuật này độ nhạy còn kém và chi phí khá cao). Áp dụng kỹ thuật
RT- PCR vào chẩn đoán thời gian đã được rút ngắn xuống còn 4- 5 giờ với độ
chính xác cao, an toàn. TS Tô Long Thành cho biết: "Bình thường để biết
con vật có mắc bệnh hay không, chúng ta phải đợi đến khi chúng phát bệnh ra
ngoài với các hiện tượng chảy nước bọt ở mồm, mũi hay nứt toác móng chân. Kỹ
thuật RT- PCR cho phép phát hiện bệnh ngay trong giai đoạn đầu tiên". Sở
dĩ RT- PCR nhận biết được bệnh nhanh như vậy vì nhờ việc kết hợp PCR với cặp mồi
1F/1R khả năng xác định các type O, A, C và ASIA- 1 gây bệnh của virus lở mồm
long móng diễn ra rất nhanh. Theo TS. Tô Long Thành,
khi tiến hành dùng RT- PCR nhất thiết phải làm trên 14 mẫu
ARN vào cùng một thời điểm. Từ đây, chúng ta tiến hành theo dõi các thay đổi của
bệnh lý trên phác đồ điều trị. Trong thời gian này chỉ cần một trong số các mẫu
có sự thay đổi lên, xuống bất thường là chúng ta đã có thể xác định được nguồn
bệnh. Dùng phương pháp này nhất thiết phải có các cặp mồi vì tính đặc hiệu của
chúng. Ngoài cặp mồi 1F/1R đã được áp dụng, những cặp mồi khác như P33/P38
(type O), P33/P87 (type A), P33/P40 (type C), P33/P74 (type ASIA- 1) cũng đóng
vai trò rất quan trọng vì mỗi loại có một loại phản ứng đa dạng khác nhau.
Ngoài ra còn có các ứng dụng như: - Chẩn
đoán các loai virus ARN như virus dịch tả heo (Hog Cholera – Classical Swine
Fever), virus gây hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp (PSSR) - Sử dụng kỹ thuật
RT-PCR bán định lượng (Semi quantitative Reverse Transcript – Polymerase Chain
Reaction) để đánh giá mức độ sao chép HIP ở mô ung thư biểu mô tuyến giáp so
sánh với mô giáp lành tính. Phan Thị Minh Phương, Đại học Y Dược Huế, Trần Vân
Khánh, Tạ Thành Văn, Trần Thị Chính, Đại học Y Hà Nội - Phát hiện virus cúm H5N1 bằng RT-PCR (Theo
WHO – 2007)